Toàn văn Bản Tuyên ngôn độc lập
Ngày 2/9/1945, tại cuộc mít tinh ở vườn hoa Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập.
Bản Tuyên ngôn độc Lập do Người khởi thảo, được Ban Thường vụ Trung ương Đảng đóng góp ý kiến và nhất trí thông qua.
Nhân kỷ niệm 80 năm Quốc khánh 2/9 (2/9/1945 – 2/9/2025), ESC xin trân trọng đăng toàn văn bản Tuyên ngôn độc lập.
Hỡi đồng bào cả nước,
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói:
“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.
Thế mà hơn tám mươi năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.
Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.
Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết.
Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu.
Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.
Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.
Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều.
Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.
Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.
Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn, trở nên bần cùng.
Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn.
Mùa thu năm 1940, phát-xít Nhật đến xâm lăng Đông – Dương để mở thêm căn cứ đánh Đồng minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng trị đến Bắc kỳ hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.
Ngày 9 tháng 3 năm nay, Nhật tước khí giới của quân đội Pháp. Bọn thực dân Pháp hoặc bỏ chạy hoặc đầu hàng. Thế là chẳng những chúng không “bảo hộ” được ta, trái lại, trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật.
Trước ngày mồng 9 tháng 3, biết bao lần Việt minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng, lại thẳng tay khủng bố Việt minh hơn nữa.
Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng.
Tuy vậy, đối với nước Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo. Sau cuộc biến động ngày mồng 9 tháng 3, Việt minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật, và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ.
Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp.
Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa.
Bởi thế cho nên, chúng tôi, Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.
Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng, kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp.
Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Tê-hê-răng và Cựu-kim-sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam.
Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do ! Dân tộc đó phải được độc lập !
Vì những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:
Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.
Bác Hồ và giá trị bản Tuyên ngôn độc lập
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc Việt Nam thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Tiếng nói của Người vang vọng khắp non sông, khẳng định quyền tự do, độc lập thiêng liêng của dân tộc Việt Nam và tuyên bố trước toàn thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc. Ảnh tư liệu
Sự kiện ấy không chỉ mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam kỷ nguyên độc lập, tự do, đi lên CNXH mà còn để lại bản tuyên ngôn bất hủ, kết tinh trí tuệ, khí phách và khát vọng của cả một dân tộc.
Trước khi đọc Tuyên ngôn Độc lập, Bác Hồ đã trải qua hàng chục năm bôn ba khắp năm châu, tìm đường cứu nước. Người tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, nghiên cứu sâu sắc các bản tuyên ngôn nổi tiếng như Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1791 của Pháp.
Điều đặc biệt ở Bác là Người không sao chép, mà chọn lọc, vận dụng sáng tạo những giá trị tiến bộ ấy, đặt trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể của dân tộc Việt Nam. Chính vì thế, bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam vừa mang tính phổ quát của nhân loại, vừa chứa đựng bản sắc, khí phách Việt Nam.
Bác Hồ khẳng định quyền tự do, bình đẳng là thiêng liêng, bất khả xâm phạm, đồng thời nêu rõ quyền đó phải gắn liền với quyền độc lập của dân tộc. Đây là bước phát triển sáng tạo, gắn quyền cá nhân với quyền cộng đồng, quyền dân tộc.
Bản Tuyên ngôn đã đưa ra những bằng chứng xác đáng về tội ác của thực dân Pháp và Nhật, từ đó khẳng định cuộc Cách mạng Tháng Tám là sự lựa chọn tất yếu, chính đáng, phù hợp xu thế thời đại.
Bác Hồ thay mặt toàn dân tộc tuyên bố quyết đem tinh thần, lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững độc lập. Đó không chỉ là lời khẳng định mà còn là lời thề thiêng liêng.
Bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam đã truyền cảm hứng cho phong trào giải phóng dân tộc ở nhiều nơi trên thế giới. Nhiều học giả quốc tế đánh giá đây là “một trong những văn kiện chính trị vĩ đại của thế kỷ XX”, bởi nó kết hợp nhuần nhuyễn tư tưởng nhân quyền với tư tưởng giải phóng dân tộc.
Tuyên ngôn Độc lập giúp bồi đắp bản lĩnh chính trị, lòng trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng và Nhân dân. Tuyên ngôn hun đúc ý chí quyết tâm, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của dân tộc. Tuyên ngôn khơi dậy niềm tự hào dân tộc, giúp học viên ý thức sâu sắc rằng mình là người kế tục xứng đáng sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Việt Nam bước vào thế kỷ XXI với vị thế mới: nền kinh tế tăng trưởng liên tục, hội nhập quốc tế sâu rộng, uy tín quốc tế ngày càng cao. Song, tình hình khu vực và thế giới tiềm ẩn nhiều bất ổn, các thách thức an ninh phi truyền thống và chiến lược “diễn biến hòa bình” vẫn phức tạp.
Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 là bản hùng ca bất diệt của dân tộc Việt Nam, kết tinh trí tuệ và bản lĩnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng cả dân tộc. Giá trị của Tuyên ngôn không chỉ dừng lại ở thời khắc lịch sử 80 năm, mà còn soi sáng con đường phát triển của đất nước hôm nay và mai sau.