Lịch sử ngày Quốc khánh 2/9 của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Ngày 2/9/1945 đã trở thành một mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Buổi sáng hôm ấy, tại Quảng trường Ba Đình – Hà Nội, trước hàng chục vạn đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt dân tộc, trịnh trọng đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, tiền thân của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ngày nay. Sự kiện này không chỉ mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc, mà còn là tiếng chuông thức tỉnh, cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới.
Để có được ngày độc lập thiêng liêng ấy, dân tộc Việt Nam đã trải qua hơn 80 năm sống trong cảnh nô lệ dưới ách thống trị thực dân Pháp và phát xít Nhật. Từ năm 1858, khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Đà Nẵng, đất nước rơi vào vòng kiềm tỏa của ngoại bang. Những cuộc khởi nghĩa, phong trào yêu nước như Cần Vương, Yên Thế, Đông Du, Duy Tân… đã bùng nổ nhưng lần lượt thất bại. Nhân dân phải sống trong cảnh lầm than, bị bóc lột, kìm kẹp, mất hết quyền tự do. Trong bối cảnh đó, sự kiện Nguyễn Ái Quốc sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 đã mở ra con đường cứu nước đúng đắn – con đường cách mạng vô sản.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo phong trào cách mạng, biến những cuộc khởi nghĩa lẻ tẻ thành sức mạnh tổng hợp của toàn dân. Đặc biệt, khi Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc, Nhật Bản đầu hàng Đồng minh, chính quyền thực dân – phong kiến ở Đông Dương rệu rã, thời cơ ngàn năm có một đã đến. Nhân dân cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng đã tiến hành Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chỉ trong vòng nửa tháng đã giành chính quyền về tay nhân dân trên phạm vi cả nước. Đây chính là tiền đề trực tiếp để khai sinh một quốc gia độc lập.
Ngày 25/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến khu Tân Trào trở về Hà Nội để cùng Trung ương Đảng chuẩn bị cho sự kiện lịch sử: tuyên bố độc lập. Chỉ ba ngày sau, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, Hồ Chí Minh giữ cương vị Chủ tịch. Tất cả đã sẵn sàng cho ngày ra đời của một nhà nước mới.
Sáng 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, hơn 50 vạn đồng bào từ khắp mọi miền Tổ quốc đã tập trung trong không khí sục sôi. Cờ đỏ sao vàng tung bay, băng rôn, biểu ngữ giăng kín, tạo nên một biển người, biển cờ rực rỡ. Đúng 14 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bộ kaki giản dị bước lên lễ đài. Sau phút mặc niệm các anh hùng liệt sĩ, Người trịnh trọng đọc Tuyên ngôn Độc lập. Trong văn kiện lịch sử bất hủ, Hồ Chí Minh đã trích dẫn tinh hoa tư tưởng nhân quyền từ Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1789, để khẳng định quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của dân tộc Việt Nam. Lời khẳng định đanh thép “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập” đã vang vọng khắp không gian, lay động trái tim hàng vạn người có mặt, cũng như hàng triệu đồng bào trên cả nước.
Sau khi Tuyên ngôn kết thúc, cả quảng trường vang dội tiếng hô “Độc lập! Độc lập!”, “Hồ Chủ tịch muôn năm!”. Giây phút ấy, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chính thức ra đời, khẳng định sự cáo chung của chế độ thực dân – phong kiến, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Ý nghĩa của ngày 2/9 không chỉ dừng lại trong phạm vi dân tộc. Thắng lợi của Việt Nam đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi, Mỹ Latin. Một dân tộc nhỏ bé nhưng kiên cường đã chứng minh cho thế giới thấy rằng, ý chí quật cường và sức mạnh đoàn kết có thể đánh bại mọi thế lực ngoại xâm hùng mạnh.
Tuy nhiên, con đường đi lên độc lập, tự do không hề bằng phẳng. Ngay sau ngày Tuyên ngôn, đất nước lại phải bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp quay trở lại. Sau 9 năm trường kỳ, quân dân ta đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, buộc Pháp ký Hiệp định Genève, công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Nhưng đất nước tạm thời chia cắt, nhân dân miền Nam tiếp tục chống Mỹ, trong khi miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cuộc kháng chiến 21 năm chống Mỹ cứu nước đã kết thúc bằng Đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Ngày 2/7/1976, Quốc hội khóa VI quyết định đổi tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Từ đó, ngày 2/9 không chỉ là ngày kỷ niệm sự ra đời của một quốc gia độc lập, mà còn là Quốc khánh của một nước Việt Nam thống nhất, vững bước trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong đời sống hôm nay, Quốc khánh 2/9 là ngày hội lớn của toàn dân tộc. Người dân cả nước cùng nhau treo cờ đỏ sao vàng, tổ chức lễ kỷ niệm, các hoạt động văn hóa – nghệ thuật, thể thao, diễu hành để tưởng nhớ và tri ân công lao của cha ông. Đây không chỉ là ngày nghỉ lễ theo luật định, mà còn là dịp để nhắc nhở thế hệ trẻ về lòng yêu nước, về trách nhiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Từ bài học của ngày Quốc khánh, có thể rút ra những giá trị trường tồn: sức mạnh đoàn kết toàn dân là yếu tố quyết định mọi thắng lợi; tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội còn nguyên giá trị; và ý chí tự lực, tự cường là nền tảng để đất nước phát triển bền vững.
80 năm đã trôi qua kể từ mùa thu năm 1945, nhưng ký ức về ngày 2/9 vẫn luôn in đậm trong trái tim mỗi người Việt Nam. Lời Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn vang vọng như một bản hùng ca bất diệt: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập.” Đó là niềm tự hào thiêng liêng, là hành trang để dân tộc ta tiếp tục vững bước trên con đường dựng xây một đất nước “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.”
ESC tổng hợp